Thợ nề ngõa

Thợ nề ngõa
Thợ nề ngõa

Thợ nề ngõa

THỢ NỀ NGÕA
 

Thợ nề tay nghềĐể có được công trình cố đô Huế nguy nga, đồ sộ phải tốn không ít công sức của nhiều người. Trong đó, phải kể tới bàn tay tài hoa của thợ nề ngõa. Nghề thủ công này hiện ít người biết đến nhưng không phải vì thế mà mai một. Những bàn tay khéo léo, tinh tế của họ vẫn góp phần đáng kể vào các công trình xây dựng.

Nề ngõa là gì?

Nề ngõa là kỹ thuật xây dựng sử dụng nguyên vật liệu truyền thống như vôi vữa, bả màu, sành sứ,… để tạo nên những trang trí nội, ngoại thất hay những phù điêu khảm đắp nổi ở các công trình lăng tẩm, đền đài, phủ đệ trong thời phong kiến nhà Nguyễn xưa. Khái niệm này không phổ biến nhiều ngày nay nhưng trên phương diện chuyên môn, những người thợ sẽ đảm đương mọi kỹ thuật từ khi đặt móng cho đến khi công trình hoàn tất giống những người thợ xây ngày nay.

Xây móng và tường ngoài người thợ nề thường sử dụng các loại gạch chuyên, gạch vồ, có nơi còn xây những loại đá bùng, đá ong, đá chai, đá hoa cương, đá cà lôi tô trát các loại vôi trên vách thường phải tuân thủ những công thức pha chế riêng với những đặc tính khác nhau như: vôi hồ, vôi tro, vôi thau, vôi mật, vôi giấy, vôi bôi...

Quá trình hình thành một công trình kiến trúc lớn hay nhỏ đều trải qua các khâu xây dựng chính như đào móng, xây tường, gầy nóc, lộp ngói. Những cấu kiện của bộ sườn, cửa… đều là những sản phẩm đặt làm ở bộ phận mộc theo yêu cầu của đồ án. Ngói lợp ở mái, trong các công trình xây dựng của triều Nguyễn thường có nhiều loại, cung ứng cho từng bộ phận của mái hoặc tính chất của công trình như: ngói âm, ngói dương, ngói liệt, ngói quế, ngói vỏ mang, ngói câu đầu, đích thủy (mặt quý), (chữ thọ)…

Các kiến trúc cung đình nhà Nguyễn nổi tiếng với kỹ thuật khảm sành sứ với bàn tay khéo léo của các nghệ nhân trong tượng cục, những mảng khảm sành sứ đã làm cho công trình trở nên lộng lẫy uy nghi. Đây còn là đặc trưng nổi bật và đạt đến đỉnh cao trong nghệ thuật kiến trúc đời Nguyễn.

Lịch sử hình thành Nề ngõa tượng cục

Nề ngõa tượng cục là tổ chức của những người thợ xây, làm gạch ngói ở Huế từ thời phong kiến nhà Nguyễn.

Vào khoảng thế kỉ XVI, Chúa Nguyễn Hoàng trong khi Nam tiến, đã chiêu mộ rất nhiều thợ thủ công giỏi để thực hiện mưu đồ xây dựng nền móng của một triều đình riêng, thoát khỏi sự kìm kẹp của Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Do vậy, đòi hỏi nghề thợ nề với lượng nhân lực lớn để phục vụ nhiệm vụ cấp bách lúc bấy giờ.

Tới thế kỉ XIX, khi Phú Xuân (Huế) trở thành kinh đô của vua Nguyễn, trong điều kiện đất nước tiếp tục mở mang, các công trình tiếp tục được xây dựng, Bộ Công (một trong lục bộ của chính quyền trung ương) đã lập ra “Nề ngõa tượng cục”. Đây là một tổ chức nhà nước điều hành lực lượng những người thợ nề.

Năm Minh Mạng thứ 13 trong ty chế tạo (tức ty tu tạo) gồm chủ sự 1 người, tư vụ 2 người, Bát cửu phẩm thư lại 2 người và số lính thợ trong ty là 25 người.

Các công trình kiến trúc giao cho ty tu tạo đều do bộ công quản lý và đặt bản thiết kế, coi sóc, giám định cũng như tính toán vật liệu chi dụng theo yêu cầu của công trình.

Nê ngõa tượng cục ngoài chức năng thực hiện những nhiệm vụ theo sự chỉ đạo của bộ công, còn song song tồn tại một tổ chức có tính chất dân gian được gọi là “Hàng Cục”. Bởi thực chất, trong các tổ chức tượng cục, ngoài số lượng lính thợ không nhiều, trực thuộc biên chế chính thức của nhà nước, đặt trong cơ cấu thường trực của ngạch binh, còn có một số lớn thợ thuyền chỉ thực hiện các công trình mỗi khi có lệnh điều động của ty tu tạo.

Do yêu cầu công tác của nhà nước phong kiến, mức độ trưng thu sử dụng số lượng thợ thuyền không thường xuyên giống nhau. Cho nên, để duy trì sinh kế cho số lớn thợ thuyền ở khắp nơi, ngoài thời gian tập trung toàn bộ cho các công trình trọng điểm, lượng thợ này vẫn tiến hành thực hiện các công trình tư của quan lại hay trong dân gian dưới sự điều động của một tổ chức “hàng cục” mang tính nội bộ, độc lập. Tuy nhiên đứng đầu tổ chức này cũng là những thành viên được nhà nước phong phẩm hàm. Sở dĩ có vấn đề này vì ngoài việc nhà nước muốn kiểm soát được phần nào hoạt động của các phái thợ khắp nơi, họ còn nắm được kế hoạch để điều động được ngay số lượng thợ thuyền cần thiết khi có công trình nhà nước được triển khai.

Trong một văn bản được gọi là “Chúc thư hàng cục” viết vào năm Tự Đức thứ 34, vào thời ấy tổ chức hàng cục đã có 32 phái đặt dưới sự lãnh đạo của ban chấp hành hàng cục gồm 1 cục trưởng 1 kháng thủ, 1 thư ký và 1 kiểm lễ.

Cục trưởng là những “công sư” danh tiếng do hàng cục bầu lên và được triều đình phong phẩm hàm. Ban chấp hành hàng cục lãnh đạo các phái trong lĩnh vực nghề nghiệp và lễ nghi phong tục. Sau này khi tượng cục không còn tồn tại đúng chức năng của nó nữa thì Ban chấp hành hàng cục vẫn tồn tại với tư cách lãnh đạo nghề nghiệp trên danh nghĩa, thực chất chỉ đóng vai trò điều hành trong lĩnh vực nghi lễ và tương tế.

Ra đời từ một công tương của nhà nước phong kiến, nhưng tổ chức Nê ngõa tượng cục vẫn thực hiện song song những yêu cầu của nhân dân. Bên cạnh đội ngũ biên chế vào các cơ ngạch lính thợ của triều đình thì những phái thợ ở khắp nơi trong những lúc không bị trưng tập vẫn hoạt động thường xuyên ngành nghề của mình ở từng địa phương. Họ gắn bó với nhau trong một tổ chức mà ngày càng đi vào quỹ đạo của Phường hội dân gian. Nê ngõa tượng cục hiện tại gồm các thành viên khắp nơi quan hệ với nhau trên lĩnh vực nghề nghiệp chỉ còn thể hiện ở lĩnh vực nghi lễ cúng giỗ tổ sư và tương tế.

Xóm Ngõa Tượng – Nơi cư ngụ của thợ nề ngõa

Xóm Ngõa tượng là một dải đất hẹp với diện tích trên dưới 2 mẫu, nằm tại xứ Cay vông hạ, thuộc phận làng Địa Linh, xã Hương Vinh, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 3km về hướng Bắc.

Bởi nhu cầu phát triển ngành xây dựng nên nhiều thợ nề khắp nơi được huy động về kinh đô làm việc. Trong điều kiện đó, nhà Nguyễn đã cắt một dải đất nằm dọc theo con “hói hàng Tổng” (nay là xóm Ngõa Tượng) để làm nơi cư trú cho họ.Xóm Ngõa Tượng được lựa chọn còn bởi nguồn nguyên liệu đất sét dồi dào và có chất lượng, cộng với giao thông thuận tiện, gần kinh thành nên thuận lợi cho việc giám sát, theo dõi công trình thi công.

Sau khi các công trình hoàn thành, phần lớn những người thợ nề này trở về quê quán. Tuy nhiên, vẫn có một số ít gia đình tình nguyện ở lại xóm Ngõa Tượng cho tới bây giờ.

Xây dựng xong Đại Nội (Hoàng Thành), vua Nguyễn cho xây Nê ngõa tượng đường là nơi thờ tổ sư ngành nề. Trong bài vị có nhắc tới ông tổ nghề Hoàng Ngọc Quý (Hoàng Ngọc Quốc Công) và một sắc chỉ triều Bảo Đại Phong “Dực bảo trung hưng linh phù chi thần” thay cho sắc chỉ triều Tự Đức hiện không còn lưu giữ.

Hàng năm, đến ngày 24 tháng 11 Âm lịch, thợ nề khắp tỉnh Thừa Thiên Huế lại quy tụ về đây tổ chức cúng tế.

zalo